Ung thư phổi di căn não là gì? Các công bố khoa học về Ung thư phổi di căn não

Ung thư phổi di căn não là khi tế bào ung thư phổi lan sang não và tạo ra các khối u tại vùng não. Đây là một dạng ung thư di căn (metastasis), tức là khi tế bà...

Ung thư phổi di căn não là khi tế bào ung thư phổi lan sang não và tạo ra các khối u tại vùng não. Đây là một dạng ung thư di căn (metastasis), tức là khi tế bào ung thư bắt đầu từ nơi ban đầu (phổi) lan truyền qua hệ tuần hoàn và định cư tại một vị trí khác (não). Ung thư phổi di căn não có thể gây ra các triệu chứng như đau đầu, buồn ngủ, mất khả năng nắm bắt thông tin, nhức đầu, mất trí nhớ, tê bì tay chân, và co giật. Đây là một tình trạng rất nghiêm trọng và đòi hỏi điều trị chuyên môn.
Ung thư phổi di căn não xảy ra khi tế bào ung thư phổi tách rời khối u ban đầu và đi qua hệ tuần hoàn để nắm bắt một vùng khác của cơ thể - trong trường hợp này, là não. Tế bào ung thư phổi có thể truyền qua cơ chế tạo ra các khối u thứ cấp (metastasis) trong não, gây ra các triệu chứng và vấn đề sức khỏe.

Ung thư phổi di căn não thường được chẩn đoán khi các triệu chứng như đau đầu nặng, buồn ngủ, mất trí nhớ, khó tập trung, mất khả năng nắm bắt thông tin, tê bì tay chân hoặc thay đổi trong thái độ và tư duy xuất hiện. Các triệu chứng khác có thể bao gồm nhức đầu liên tục, hoa mắt, mất thị lực, co giật, khó nói, mất cảm giác và khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động hàng ngày.

Việc xác định và chẩn đoán ung thư phổi di căn não thường được tiến hành bằng cách sử dụng các công cụ hình ảnh như CT (Computed Tomography) scan, MRI (Magnetic Resonance Imaging) scan và PET (Positron Emission Tomography) scan để xem xét vùng não có dấu hiệu di căn. Xét nghiệm máu và thử nghiệm số nơron cũng có thể được sử dụng để kiểm tra chức năng não.

Điều trị ung thư phổi di căn não thường gồm cả phẫu thuật, thuốc hóa trị và phối hợp với điều trị bổ trợ như xạ trị vùng não. Phẫu thuật như phẩu thuật loại bỏ khối u và xạ trị để tiêu diệt tế bào ung thư cũng được sử dụng như các phương pháp điều trị chính. Thuốc hóa trị bao gồm sử dụng thuốc chống ung thư giúp kiểm soát và ngăn chặn sự lây lan của tế bào ung thư. Điều trị căn bản và chăm sóc hỗ trợ cũng quan trọng trong việc quản lý triệu chứng và nâng cao chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Tuy nhiên, ung thư phổi di căn não thường có tỷ lệ sống sót thấp và điều trị khó khăn do vị trí và tính chất của khối u trong não. Việc chẩn đoán sớm và điều trị chuyên môn là quan trọng để cải thiện dự báo và tăng cơ hội sống sót của bệnh nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư phổi di căn não":

CẮT THUỲ PHỔI KÈM NẠO VÉT HẠCH ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN SỚM BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC MỘT LỖ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 513 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Ung thư phổi là một trong những ung thư thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Kỹ thuật cắt thuỳ phổi kèm theo nạo vét hạch điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm (I, II) bằng phẫu thuật nội soi một lỗ đã được các tác giả trên thế giới đồng thuận. Tại bệnh viện hữu nghị Việt Đức đã triển khai thường quy phẫu thuật này, cần có những tổng kết và nhận xét tính khả thi của kỹ thuật. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, hồi cứu 37 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm được điều trị bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ từ tháng 01/2016 tới 06/2021, về các thông số trong và sau mổ cùng tỷ lệ biến chứng... Kết quả: Bao gồm 21 nam và 16 nữ. Tuổi trung bình 59,62 ± 8,79 (34 - 76). Thời gian phẫu thuật 150 ± 22,58 phút (90-195). Thời gian rút dẫn lưu màng phổi trung bình 5,59 ± 1,46 ngày (3- 9). Số ngày nằm viện trung bình 7,54 ± 1,86 ngày (4-12). Không có tử vong, tai biến và biến chứng nặng trong và sau mổ. Giai đoạn ung thư: 18 trường hợp giai đoạn I, 19 trường hợp giai đoạn II. Kết luận: Cắt thuỳ phổi kèm theo nạo vét hạch trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ là một kỹ thuật an toàn, khả thi và có nhiều ưu điểm.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ #cắt thuỳ phổi
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI BIỂU MÔ TUYẾN DI CĂN NÃO CÓ ĐỘT BIẾN EGFR BẰNG TKIs THẾ HỆ 1
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị ung thư phổi biểu mô tuyến di căn di căn não có đột biến EGFR bằng TKIs thế hệ 1 và một số yếu tố liên quan đến PFS. Đối tượng nghiên cứu: Gồm 66 bệnh nhân UTP biểu mô tuyến di căn não có đột biến gen EGFR (Del exon 19 hoặc L858R exon 21) được điều trị bước 1 bằng Gefitinib 250mg/ngày hoặc Erlotinib 150mg/ngày có kết hợp với xạ toàn não hoặc gamma knife hoặc không tại bệnh viện K từ tháng 10/2015 đến tháng 1/2021. Kết quả: Trung vị PFS đạt 11,5 tháng. PFS trung vị của các nhóm dùng TKIs đơn thuần, TKIs + xạ toàn não, TKIs + gamma knife lần lượt là 11 tháng, 11 tháng và 12,7 tháng. PFS não trung vị đạt 11 tháng. Các yếu tố liên quan đến PFS là có đột biến del 19, đáp ứng tại thời điểm 3 tháng, toàn trạng tốt, không hoặc di căn 1 cơ quan ngoài não. Kết luận: Điều trị TKIs thế hệ 1 trên bệnh nhân UTP biểu mô tuyến di căn não mang lại tỷ lệ đáp ứng chung cũng như đáp ứng tại não cao, kéo dài thời gian sống thêm bệnh không tiến triển, kết quả khả quan ở nhóm điều trị kết hợp với gamma knife.
#TKIs thế hệ 1 #ung thư phổi di căn não #đột biến EGFR
ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CHỨC NĂNG VÀ TRIỆU CHỨNG THẦN KINH SAU XẠ PHẪU BẰNG GAMMA KNIFE 1 THÁNG Ở NGƯỜI BỆNH UNG THƯ PHỔI DI NÃO TẠI BỆNH VIỆN K
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 2 - 2022
Mục tiêu: (1) đánh giá sự thay đổi trong hoạt động chức năng và các triệu chứng thần kinh sau điều trị xạ phẫu một tháng ở người bệnh ung thư phổi di căn não tại bệnh viện K, và (2) tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến hoạt động chức năng và các triệu chứng thần kinh sau xạ phẫu 1 tháng ở người bệnh ung thư phổi di căn não tại bệnh viện K. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 92 người bệnh được chẩn đoán xác định ung thư phổi di căn não và điều trị xạ phẫu Gamma Knife tại khoa Ngoại Thần kinh bệnh viện K. Kết quả: Chỉ số toàn trạng Karnofsky được cải thiện sau 1 tháng điều trị, hầu hết người bệnh đạt 70 điểm trở lên (92,4%, N=85). Tất cả các triệu chứng thần kinh đều cải thiện sau 1 tháng điều trị. Đặc biệt, đau đầu, liệt, rối loạn cảm giác, nhìn mờ, ù tai và nghe kém là các triệu chứng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trước và sau khi điều trị, p<0,05. Ngoài ra, xét trên các yếu tố nhân khẩu học, hầu hết không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong điểm đánh giá hoạt động chức năng và triệu chứng thần kinh tại các nhóm khác nhau, p>0.05. Người bệnh có trên 2 ổ di căn, có tình trạng ù tai nhiều hơn so với nhóm còn lại, p <0.05. Kết luận và khuyến nghị: Có sự tác động tích cực của liệu pháp điều trị Gamma Knife tới hoạt động chức năng và triệu chứng thần kinh của người bệnh. Tình trạng ù tai sau xạ phẫu Gamma Knife cần được đánh giá và khảo sát trong các nghiên cứu tiếp theo nhằm cung cấp bằng chứng cho các hoạt động điều trị và chăm sóc cho nhóm người bệnh này.
#Hoạt động chức năng #triệu chứng thần kinh #xạ phẫu bằng gamma knife #ung thư phổi di căn não
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ XẠ TRỊ TOÀN NÃO ĐIỀU TRỊ CÁC TỔN THƯƠNG UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ DI CĂN NÃO
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Ung thư phổi (UTP) là một trong 3 ung thư thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu do ung thư trên phạm vi toàn cầu. UTP gồm 2 loại chính là UTP tế bào nhỏ (UTPTBN) và UTP không tế bào nhỏ (UTPKTBN). UTP giai đoạn tiến triển thường là di căn não. Đã có nhiều thử nghiệm lâm sàng khác nhau đánh giá hiệu quả xạ trị toàn não đơn thuần trong điều trị UTP di căn não và so sánh hiệu quả với các phương pháp điều trị khác. Kết quả đã chỉ ra rằng xạ trị toàn não đơn thuần giúp kiểm soát nhanh chóng và giảm nhẹ các triệu chứng chèn ép thần kinh, nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân (BN). Đối tượng và phương pháp: 32 BN UTPKTBN di căn não 1-3 ổ, đường kính lớn nhất ≤ 30mm, được xạ trị toàn não 30Gy với phân liều 3Gy/ngày, 5 ngày/tuần. Đánh giá kết quả sau xạ trị. Kết quả: Xạ trị toàn não đơn thuần làm biến mất tổn thương di căn não 6,2%, giảm kích thước ổ di căn (53,2%), kiểm soát ổ di căn ở 96,9% BN. Xạ trị toàn não đơn thuần giúp cải thiện chỉ số PS ở 84,4%; tỷ lệ BN có giảm các triệu chứng cơ năng chiếm 62,5%, trong đó có 12,5% BN hết hoàn toàn triệu chứng. Kết luận: Xạ trị toàn não đơn thuần giúp kiểm soát nhanh chóng và giảm nhẹ triệu chứng chèn ép thần kinh nội sọ, giúp nâng cao chất lượng sống cho BN.
VAI TRÒ CỦA ĐƯỜNG MỞ NGỰC BÊN XÂM LẤN TỐI THIỂU TRONG CẮT THUỲ PHỔI KÈM NẠO VÉT HẠCH ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Sử dụng đường mở ngực bên xâm lấn tối thiểu trong phẫu thuật lồng ngực nói chung và phẫu thuật cắt thuỳ phổi do ung thư nói riêng vẫn giữ một vai trò quan trọng. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, hồi cứu: Từ 1/2015 đến 12/2016 có 93 bệnh nhân được phẫu thuật điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng đường mở ngực tối thiểu tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Kết quả:  Tỉ lệ nam/nữ = 1,7 và tuổi trung bình là 56,87±10,9 (từ 15 đến 76 tuổi). Thời gian phẫu thuật trung bình 155,10 ± 38,5 phút, có 3 bệnh nhân phải truyền máu trong mổ (3,23%), thời gian dẫn lưu màng phổi 4,94± 2,09 ngày, thời gian nằm viện 9,91± 3,03 ngày, biến chứng sau phẫu thuật chiếm 10,8%. Chức năng khớp vai bình thường và gần như bình thường lần lượt là 39,1% và 52,4%; 100% bệnh nhân hài lòng và rất hài lòng về thẩm mỹ của vết mổ sau phẫu thuật. Kết luận: Đường mở ngực bên xâm lấn tối thiểu không cắt các lớp cơ thành ngực chiếm vai trò tốt trong điều trị ngoại khoa ung thư phổi không tế bào nhỏ song hành với phẫu thuật nội soi với một số ưu điểm đã được khẳng định về giảm đau sau mổ, chức năng khớp vai, thẩm mỹ và đào tạo.
#Mở ngực bên tối thiểu #ung thư phổi không tế bào nhỏ #cắt thuỳ phổi
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG NGƯỜI BỆNH UNG THƯ PHỔI DI CĂN NÃO ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ XẠ PHẪU GAMMA KNIFE TẠI BỆNH VIỆN K
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 1 - 2021
Nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục tiêu đánh giá chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư phổi di căn não được điều trị xạ phẫu Gamma Knife và mô tả một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trên 92 người bệnh ung thư phổi di căn não được điều trị xạ phẫu bằng máy Gamma knife thế hệ Icon từ tháng 7 năm 2020 đến tháng 5 năm 2021. Người bệnh được đánh giá về chất lượng cuộc sống trước và sau điều trị 1 tháng bằng bộ công cụ của Tổ chức Nghiên cứu và điều trị ung thư Châu Âu EORTC – C30 và EORTC- BN20. Kết quả: Trước điều trị, chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng ở tất cả các khía cạnh bao gồm: hoạt động thể lực, vai trò xã hội, hoàn nhập xã hội, tâm lý cảm xúc, khả năng nhận thức, mệt mỏi, cảm giác đau, mất ngủ, khó thở, rối loạn tiêu hóa. Sau 1 tháng điều trị, chất lượng cuộc sống cải thiện rõ rêt với p < 0,05. Mức độ đau và chỉ số Karnofsky là các yếu tố liên quan đáng kể đến tất cả các chức năng của chất lượng cuộc sống. Kết luận: Chất lượng cuộc sống người bệnh được cải thiện có ý nghĩa (p<0,05) sau điều trị xạ phẫu Gamma Knife.
#ung thư phổi di căn não #gamma knife #chất lượng cuộc sống #EORTC – C30 #EORCT – BN20
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ DI CĂN NÃO BẰNG XẠ PHẪU GAMMA KNIFE VÀ HÓA TRỊ PHÁC ĐỒ PEMETREXED-CARBOPLATIN (PC)
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn não được điều trị bằng xạ phẫu Gamma Knife kết hợp hóa trị phác đồ Pemetrexed–Carboplatin tại Bệnh viện K và Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai và đánh giá kết quả điều trị của nhóm bệnh nhân trên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu trên 65 bệnh nhân được chẩn đoán xác định là ung thư phổi không tế bào nhỏ không vảy di căn não, được điều trị bằng xạ phẫu Gamma Knife kết hợp hóa trị phác đồ Pemetrexed-Carboplatin tại Bệnh viện K và Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2018 đến tháng 7/2021. Kết quả: Tuổi trung bình là 58,3 ± 9,2 tuổi, nam giới chiếm tỷ lệ 86,2%, đặc điểm lâm sàng: hội chứng tăng áp lực nội sọ (72,3%), ho khan (61,5%), không có triệu chứng thần kinh (18,5%). Đặc điểm hình ảnh MRI sọ não: u ở bán cầu đại não (66,2%), 3 u (44,6%), kích thước u não di căn trên 10mm (89,2%). Tỷ lệ đáp ứng khách quan toàn bộ là 35,4%, đáp ứng khách quan tại não là 70,7%, đáp ứng khách ngoài não là 36,9%.Tỷ lệ kiểm soát bệnh tại não là 90,7%. Trung vị thời gian sống thêm bệnh không tiến triển (PFS) là 10,3 tháng. Trung vị thời gian sống thêm không tiến triển tại não là 10,8 tháng. Tác dụng phụ hay gặp là thiếu máu (49,2%), buồn nôn (40%), nôn (20%), tăng men gan (12,3%). Kết luận: Xạ phẫu Gamma Knife kết hợp hóa trị phác đồ Pemetrexed-Carboplatin là phương pháp điều trị hiệu quả tốt trong ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn não với độ an toàn cao.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #u não di căn #hóa trị #xạ phẫu gamma knife #pemetrexed
Vai trò phẫu thuật nạo hạch trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ có hạch N2
Trong thời gian 10 năm từ năm 2004 tới năm 2014 có 94 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có hạch trung thất đã được phẫu thuật tại bệnh viện Thống Nhất. 78 trường hợp cắt 1 thùy phổi chiếm tỉ lệ 83%, 2 trường hợp cắt 2 thùy phổi chiếm tỉ lệ 2,1%, cắt toàn bộ 1 bên phổi trong 3 trường hợp chiếm tỉ lệ 3,2%, 3 trường hợp mổ nội soi cắt thùy phổi chiếm tỉ lệ 3,2%, 8 trường hợp mổ thám sát sinh thiết u và hạch trung thất chiếm tỉ lệ 8,5%. Tất cả 94 bệnh nhân đều được hóa trị bổ trợ với phác đồ có platinum.62 trường hợp phát hiện có hạch trung thất trước mổ trên chụp vi tính cắt lớp chiếm tỉ lệ 66,0%. 42 trường hợp hạch trung thất phát hiện có tế bào ung thư di căn trên mô bệnh học chiếm tỉ lệ 44,7%.Kết quả sớm cho thấy không có tử vong do phẫu thuật. 1 trường hợp chảy máu sau mổ chiếm tỉ lệ 1,1%. Xẹp phổi do tắc đàm 1 trường hợp, tràn khí màng phổi kéo dài 2 trường hợp.Thời gian sống thêm trung bình là 36 tháng, thời gian sống thêm không bệnh trung bình là 30,4 tháng. Tỉ lệ sống thêm 5 năm là 19,1%. Có sự khác biệt giữa nhóm bệnh nhân có hạch N2 có tế bào ung thư di căn và nhóm hạch N2 không có tế bào ung thư di căn về thời gian sống thêm 5 năm lần lượt là 14,3% và 23,1%.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #hoá trị bổ trợ #Resectable NSCLC #adjuvant chemotherapy.
Mức CA125 huyết thanh dự đoán tiên lượng ở bệnh nhân có di căn não nhiều từ ung thư phổi không tế bào nhỏ trước và sau điều trị xạ trị não toàn bộ Dịch bởi AI
Medical Oncology - Tập 31 - Trang 1-5 - 2014
Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của mức CA125 huyết thanh đến tiên lượng của bệnh nhân có di căn não nhiều từ ung thư phổi không tế bào nhỏ trước và sau điều trị xạ trị não toàn bộ. Chúng tôi đã xem xét hồi cứu 66 bệnh nhân có di căn não nhiều từ ung thư phổi không tế bào nhỏ trước và sau điều trị xạ trị. Xạ trị được thực hiện cho toàn bộ não bằng cách sử dụng chùm tia bên 6MV đối diện với liều 30 Gy trong 15 lần trong 3 tuần. CA125 tăng cao được xác định là >35 U/mL. Tỷ lệ sống sót được tính toán bằng phương pháp Kaplan-Meier, và phân tích đơn biến và đa biến đã được sử dụng để xác định các yếu tố có ý nghĩa liên quan đến tiên lượng, sử dụng mô hình nguy cơ tỷ lệ Cox. Trong thời gian theo dõi trung bình (khoảng) là 1.25 (0.25–2.50) năm, 62 bệnh nhân đã chết vì ung thư phổi không tế bào nhỏ; tỷ lệ sống sót đặc hiệu cho ung thư (CSS) sau 1 năm là 43.08 %. Ba mươi bệnh nhân có mức CA125 cao trước khi hóa-xạ trị (>35U/mL), và tỷ lệ CSS của họ kém hơn đáng kể so với các bệnh nhân còn lại (P = 0.024). Phân tích đa biến cho thấy rằng mức CA125, số lượng di căn và tổng khối u là các chỉ số tiên lượng độc lập cho CSS, với tỷ lệ nguy cơ lần lượt là 1.99, 1.67 và 2.02. Sự gia tăng CA125 trước khi điều trị dự đoán tiên lượng kém ở bệnh nhân có di căn não nhiều từ ung thư phổi không tế bào nhỏ trước và sau điều trị xạ trị não toàn bộ.
#CA125 #ung thư phổi không tế bào nhỏ #di căn não nhiều #tiên lượng #xạ trị não toàn bộ
Di căn xương và di căn não sau phẫu thuật ung thư phổi không tế bào nhỏ Dịch bởi AI
International Journal of Clinical Oncology - Tập 26 - Trang 1840-1846 - 2021
Một số lượng lớn bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) phát triển các di căn xương (OM) và/hoặc di căn não (BM) sau phẫu thuật, tuy nhiên, chụp cắt lớp vi tính (CT) ngực thường không phát hiện được những tái phát này. Chúng tôi đã nghiên cứu tỷ lệ mắc BM và OM sau cắt bỏ phổi và nhằm xác định các ứng viên có thể hưởng lợi từ hình ảnh cộng hưởng từ não (MRI) và 18F-fluorodeoxyglucose-positron emission tomography (FDG-PET) bên cạnh CT. Chúng tôi đã xem xét lại các hồ sơ y tế của 1099 bệnh nhân NSCLC đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ phổi từ năm 2002 đến 2013. Các yếu tố lâm sàng và bệnh lý liên quan đến OM và/hoặc BM đã được điều tra bằng phân tích đơn biến và đa biến. Tái phát sau phẫu thuật xảy ra ở 344 bệnh nhân (32,6%). OM được chẩn đoán ở 56 bệnh nhân (5,6%), trong đó 93% xảy ra trong vòng 3 năm. BM được phát hiện ở 72 bệnh nhân (6,6%), trong đó 91,1% xảy ra trong vòng 3 năm. Phân tích đa biến cho thấy khối u phân loại kém và sự xuất hiện của di căn hạch bệnh lý có liên quan đáng kể đến BM sau phẫu thuật (p = 0,037, < 0,001), mức CEA huyết thanh trước phẫu thuật từ 5 ng/mL trở lên và sự hiện diện của di căn hạch bệnh lý cũng có liên quan đáng kể đến OM (p = 0,034, < 0,001). Tỷ lệ mắc OM và/hoặc BM trong 5 năm lên đến 25,9% ở những bệnh nhân có di căn hạch bệnh lý. Chúng tôi đã xác định các yếu tố dự đoán quan trọng của BM và OM sau phẫu thuật. Dưới sự chọn lựa bệnh nhân, hiệu quả của việc giám sát chặt chẽ đối với các hình thức tái phát nên được xem xét với mục tiêu phát hiện sớm hơn, duy trì chất lượng cuộc sống và kết quả sống sót.
#ung thư phổi không tế bào nhỏ; di căn xương; di căn não; cắt bỏ phổi; CEA; MRI; FDG-PET
Tổng số: 28   
  • 1
  • 2
  • 3